Trong
toán học, một
không gian tích trong hay
không gian Hausdorff tiền Hilbert[1][2] là một
không gian vectơ được trang bị một
phép toán hai ngôi gọi là
tích trong. Phép toán này liên kết mỗi cặp vectơ trong không gian với một đại lượng
vô hướng gọi là tích trong của các vectơ, thường được ký hiệu bởi dấu
bra-ket (ví dụ ⟨ a , b ⟩ {\displaystyle \langle a,b\rangle } .)
[3] Tích trong cho phép định nghĩa các khái niệm trực quan
hình học như độ dài của một vectơ hay góc giữa hai vectơ. Chúng cũng cung cấp các cách định nghĩa tính
trực giao giữa hai vectơ (tích trong bằng 0). Không gian tích trong tổng quát hóa
không gian Euclid (trong đó tích trong chính là
tích vô hướng[4]) cho các không gian vectơ với
số chiều bất kỳ (có thể vô hạn), và được nghiên cứu trong
giải tích hàm. Không gian tích trong trên
trường số phức đôi khi được gọi là
không gian unita. Khái niệm không gian vectơ với một tích trong lần đầu tiên được sử dụng bởi
Giuseppe Peano, vào năm 1898.
[5]Một không gian tích trong thường tạo ra một
chuẩn liên hệ với nó, (trong ảnh, |x| và |y| là các chuẩn của x và y), một cách chính tắc nó làm cho mọi không gian tích trong là
không gian vectơ định chuẩn. Nếu không gian định chuẩn này cũng là một
không gian Banach thì không gian tích trong được gọi là
không gian Hilbert.
[1] Nếu một không gian tích trong (H, ⟨·, ·⟩) không là không gian Hilbert thì nó có thể được "bổ sung" để trở thành không gian Hilbert (H, ⟨·, ·⟩H), gọi là làm
đầy đủ hóa. Nói một cách rõ ràng, điều này nghĩa là H được
nhúng tuyến tính và
đẳng cự vào một không gian con
trù mật của H và sao cho tích trong ⟨·, ·⟩H trên H là sự bổ sung liên tục của không gian tích trong ban đầu ⟨·, ·⟩.
[1][6]